Thứ bảy bát nhật Phục sinh

Thứ bảy bát nhật Phục sinh
Rao giảng Đức Kitô Phục sinh

(Mc 16,9-15)

  1. Phần cuối của Tin Mừng thánh Marcô (cũng không do Marcô viết, và do ai đó viết thêm
    vào) ghi tóm lược ba cuộc hiện ra chính của Đức Giêsu sau khi sống lại :
  • Đức Giêsu Phục sinh hiện ra cho bà Maria Madalena, cho hai môn đệ ở Emmau và nhóm
    Mười Một (Mc 16,9-14),
  • Đức Giêsu Phục Sinh sai các Tông đồ đi rao giảng và hứa cho các ông được làm dấu lạ
    (Mc 16,15-18).
  • Đức Giêsu Phục Sinh lên trời, còn các Tông đồ thì chăm lo rao giảng (Mc 16,19-20).
    Đoạn Tin mừng hôm nay ghi lại những lần Chúa Phục Sinh hiện ra và sai các Tông đồ đi
    rao giảng Tin Mừng.
  1. Các môn đệ lúc đầu đã không tin mặc dù đã nghe các phụ nữ kể lại việc Đức Giêsu hiện
    ra. Các ông cũng vẫn không chịu tin khi nghe thêm hai môn đệ thuật lại cuộc gặp gỡ của họ với
    Đấng Phục Sinh. Phải tới lúc Chúa đến thì các ông mới tin. Xét như vậy thì chúng ta thấy đức tin
    không do suy luận, cũng không do có sẵn chứng người ta kể lại, nhưng đức tin là việc Chúa làm,
    do Chúa ban.
    Theo Tin Mừng, sau khi khiển trách các môn đệ về thái độ cứng lòng tin của họ, Đức
    Giêsu đã củng cố lại niềm tin đó, rồi Ngài mới sai các ông đi rao giảng. Rao giảng là chia sẻ niềm
    tin của mình cho người chưa tin hay còn yếu đức tin.Vì thế, phải tin rồi mới đi rao giảng. Các môn
    đệ đã có đức tin rồi, nên Chúa tin tưởng trao trách nhiệm loan báo Tin Mừng của Chúa để loan
    báo lại cho những người khác.
  2. Ở đây, chúng ta thấy cách Đức Giêsu hành động : Ngài sai người được Ngài hiện ra
    đem Tin Mừng Phục sinh đến cho người khác. Những thế hệ Kitô đến sau chắc chắn không thể
    nhìn thấy trực tiếp Đức Giêsu, nhưng phải qua trung gian của các Tông đồ là những người đã
    được nhìn thấy Chúa. Đó là hoàn cảnh của mọi Kitô hữu hôm nay : tin Chúa nhờ lời chứng của
    những người đã được củng cố trong niềm tin. Chính Đức Giêsu đã nhìn thấy điều ấy, do đó trong
    lần hiện ra cho các Tông đồ như được kể lại nơi Tin Mừng Gioan, Ngài đã nói :”Phúc cho những
    ai không thấy mà tin”.
  3. Niềm tin vào Đấng Phục Sinh và chứng từ về Ngài luôn được diễn tả một cách sống
    mới trong cộng đồng. Sách Công vụ Tông đồ ghi lại một bức tranh vô cùng sống động về cuộc
    sống mới trong Đấng Phục Sinh ấy. Sự bình an được Đấng ban tặng đã tạo ra một cộng đồng hòa
    giải, nghĩa là một nhóm tín hữu sống trong hài hòa hiệp nhất và chia sẻ của cải cho nhau. Nét nổi
    bật của cộng đồng này không hẳn là nghèo khó, bởi vì trong đó, không ai phải thiếu thốn điều gì,
    mà chính là tình yêu thương của mọi người. Của cải vật chất, thay vì là đối tượng của sự chiếm
    hữu ích kỷ và do đó là nguyên nhân của tranh chấp chia rẽ, đã trở thành bí tích của tình bạn và
    huynh đệ (Mồi ngày một tin vui).
  4. Tin vào Chúa Phục Sinh không phải tin rồi ngồi đó, mà phải đem Tin Mừng ấy đến cho
    tha nhân, như bài Tin Mừng hôm nay nói đến điều đó. Sau khi hiện ra với các môn đệ. Đức Giêsu
    bảo các ông :”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”
    (Mc 16,15).
    Khi các Tông đồ nhận được niềm vui phục sinh của Thầy mình, họ thay đổi hẳn thái độ.
    Thay vì sợ hãi, yếu tin luôn trốn tránh ban đầu khi Thầy chết, họ đã mạnh mẽ dám công nhiên
    tuyên bố rằng thời điểm Thiên Chúa thi ân nay đã đến như Đức Giêsu đã báo trước. Họ tin rằng
    Đức Giêsu đã “sống lại” và “Nước của Thiên Chúa “ đã đến.

Niềm vui Phục Sinh cần được diễn tả bằng đời sống chứng nhân, ánh sáng Phục Sinh phải
được chiếu tỏa ra cho môn dân. Ánh sáng tự nó phải phản chiếu – không có niềm vui Phục sinh
thật nếu không ra đi loan báo Tin Mừng.

  1. Giáo hội là thân thể mầu nhiệm của Đấng Phuc sinh, Ngài chỉ thực sự được nhận diện
    trong thân thể ấy qua cử chỉ trao ban mà thôi. Chính vì thế mà trọng tâm và cao điểm của Giáo hội
    chính là cử hành Thánh Thể. Giáo hội lặp lại cử chỉ trao ban của Đức Giêsu, nhưng cử chỉ ấy sẽ
    không diễn tả trọn vẹn dung mạo của Đấng Phục Sinh, nếu nó không được nối dài và diễn tả cùng
    cuộc sống trao ban cụ thể của Giáo hội và của các Kitô hữu. Cuộc đời của người tín hữu Kitô phải
    là một Thánh lễ nối dài để mãi mãi mô tả dung mạo của Đấng Phục Sinh.
  2. Truyện : Giáo hội cần Tông đồ giáo dân.
    Số giáo dân thêm nhiều, và hầu hết các họ đạo đứng vững được trong thử thách, dù lâu
    ngày vắng Linh mục, một phần lớn còn là nhờ hoạt động tông đồ giáo dân của một số người nhiệt
    thành với công cuộc của Nước Chúa.
    Ở Trại Mỹ (Chaimi) tỉnh Quãng Ngãi, cha Đắc Lộ gặp gia đình ông cụ Phaolô và bà
    Monica. Tuy bị lòa cả hai mắt, nhưng ông cụ rất nhiệt thành truyền giáo. Cụ thật là linh hôn sống
    động của họ đạo đó. Các ngày chủ nhật và lễ trọng, cụ họp giáo dân trong căn nhà, trong khu nhà
    cụ và cụ giảng dạy khuyên răn họ.
    Cụ còn giúp cho họ tất cả phương tiện cần thiết để bảo vệ đức tin họ đã lãnh nhận. Lòng
    nhiệt thành của cụ lan rộng ra với tất cả những người ngoại đạo và giúp được nhiều người sẵn
    sàng chịu phép rửa. Thiên Chúa lại cho cụ quyền trên cả ma quỉ. Những người bị quỉ ám vùng đó
    đều được cụ trừ quỉ (Lm Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo tại Việt Nam).

Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Đà Lạt